Xã hội - giải trí

Mật mã Da Vinci, giả thuyết hay “giả” thuyết

Đăng bởi: boss | 19/5/2014

“Hầu hết mọi điều dạy cho chúng ta về chúa Ki-tô đều sai cả”. Sir Leigh Teabing, nhân vật trong cuốn tiểu thuyết trinh thám “Mật mã Da Vinci” (Da Vinci Code) đã khẳng định như vậy.

Phát hành tháng 3 năm 2003, ngay lập tức, “Mật mã Da Vinci” chiếm lĩnh vị trí đầu bảng trong danh mục Những cuốn sách bán chạy nhất thế giới, được dịch và xuất bản bằng nhiều thứ tiếng, đồng thời trở thành tác phẩm điện ảnh hứa hẹn nhiều bất ngờ trong năm nay. Tại sao giả thuyết lại gây được tiếng vang lớn như vậy? Mời các bạn theo dõi bài viết dưới đây của anh Phạm Thúc Trương Lương, người từng nổi tiếng với truyền kỳ “Người Trung Quốc khám phá thế giới” đã đăng trên TXTV và rất nhiều tờ báo khoa học nổi tiếng trong nước năm 2004.

Một giả thuyết gây sốc

Đó cũng chính là tuyên ngôn của Dan Brown, tác giả của cuốn tiểu thuyết. Với những tín đồ Cơ đốc giáo, câu nói trên nhẹ nhất là một sự báng bổ, còn nặng nhất thì có thể là một trái bom tấn với sức công phá khủng khiếp giáng thẳng vào boongke đức tin của họ. Nói một cách cô đọng, Dan Brown đưa ra và chứng minh các luận điểm sau:

  • Jesus không phải là Chúa, ông chỉ đơn thuần là một con người.
  • Jesus đã kết hôn với Mary Magdalene, một tông đồ của ông.
  • Bà lẽ ra đã được tôn thờ như một nữ Chúa.
  • Bà đã có thai với Jesus và sinh ra một con gái.
  • Người con gái này đã khai sinh ra một dòng họ danh giá mà hậu duệ của nó hiện vẫn còn tồn tại tại châu Âu.
  • Kinh thánh được một hoàng đế La Mã ngoại đạo (Constantine) chắp ghép lại.
  • Jesus được xem như một con người chứ không phải là một đức Chúa cho tới tận thế kỷ thứ Tư sau công nguyên, khi ông được hoàng đế Constantine thần thánh hóa sau một cuộc bỏ phiếu.
  • Các sách phúc âm đã được biên tập lại để hậu thuẫn cho các tuyên bố của đạo Cơ đốc sau này.
  • Một hội kín có tên là Tu viện Sion (Priory of Sion) vẫn tiếp tục tôn thờ Mary Magdalene như một nữ Chúa và cố gắng để sự thật không bị mất đi.
  • Nhà thờ Công giáo La Mã nhận thức được tất cả chuyện này và đã đấu tranh trong suốt nhiều thế kỷ để bưng bít sự thật. Để làm được điều đó nhà thờ không ngần ngại sát hại những người có liên quan.
  • Nhà thờ Công giáo La Mã sẵn sàng và thường tiến hành ám sát những hậu duệ của Chúa Ki-tô để ngăn không cho dòng giống của ông sinh sôi.

Truyền thuyết về chiếc Chén Thánh

Từ Chén Thánh (Holy Grail hay Chalice) có xuất xứ một từ tiếng Pháp trung cổ là Sangraal. Theo cách lý giải thông thường, Sangraal hợp thành từ hai từ San (Thánh) và Graal (Chén). Chén Thánh ám chỉ cái ly mà chúa Jesus đã dùng để uống rượu vang trong bữa tối cuối cùng với các tông đồ trước khi người bị Judas Iscariot chỉ điểm và rơi vào tay các thầy thượng tế Do thái. Khi Chúa bị đóng đinh câu rút, thánh tông đồ Joseph xứ Arimathea cũng dùng chính cái ly đó để hứng dòng máu của Chúa. Vì những lý do trên, cái ly nhỏ bình thường đã trở nên một thánh tích vô cùng thiêng liêng đối với những tín đồ Cơ đốc giáo.

Tuy nhiên, Dan Brown cho rằng có thể hiểu Sangraal theo một nghĩa khác nữa. Ông chiết tự Sangraal thành hai từ Sang (Máu) và Raal (Hoàng gia). Sangraal vì thế không chỉ là Chén Thánh mà còn là Dòng máu Hoàng tộc. Nó không ám chỉ một một vật chứa theo nghĩa đen như kiểu cái ly mà mang hàm ý sâu xa hơn, đó là ám chỉ một người phụ nữ đã mang trong mình giọt máu hoàng tộc, giọt máu của chúa Jesus, người vốn là dòng dõi của vua David và lúc sinh thời vẫn tự xưng mình là vua dân Do thái.

Bức tranh “Bữa tối Cuối cùng” của Leonardo Da Vinci

“Bữa tối cuối cùng” là một motif tôn giáo tương đối điển hình và vì thế được nhiều hoạ sĩ sử dụng cho việc sáng tác. Trong tranh, các hoạ sĩ thường vẽ chúa Jesus ngồi giữa 12 vị tông đồ quanh một chiếc bàn dài. Tác phẩm “Bữa tối cuối cùng” của Leonardo Da Vinci cũng có một bối cảnh tương tự. Dan Brown đã có những phát hiện rất hay ho khi quan sát kỹ bức tranh này. Ngoài hoạ phẩm của Da Vinci, tôi sẽ sử dụng thêm ở đây một bức tranh khác cùng chủ đề của hoạ sĩ Ý Jacopo Bassano để giúp minh hoạ rõ hơn lập luận của Dan Brown.

LeonardodaVinci_TheLastSupp

Bức tranh “Bữa tối cuối cùng”

Theo Dan Brown đó là Mary Magdalene. Vậy quan hệ giữa Jesus và Mary Magdalene như thế nào mà bà lại xuất hiện trong bữa ăn tối định mệnh này? Chúng ta hãy nghe Dan Brown lý giải tiếp.Cũng trong bức tranh của Bassano, chúng ta thấy Chúa đang vuốt tóc John the Evangelist, tông đồ trẻ nhất. Vẻ bề ngoài và tư thế ngồi ngả ngốn của John cho thấy lúc đó ngài mới chỉ là một thiếu niên. Nhưng dù sao thì nét mặt của ngài vẫn đầy nam tính. Hai bắp tay của ngài nổi rõ các múi cơ và đôi bàn chân trần thô kệch thò ra dưới gầm bàn thì thực sự là giống với cặp chân của một cầu thủ bóng đá. Còn bây giờ hãy nhìn người ngồi ở vị trí tương tự trên hoạ phẩm của Da Vinci, tức là ngồi bên tay phải Chúa. John the Evangelist đó chăng? Cũng trẻ, cũng không râu nhưng…trời ơi, hình như đó là một phụ nữ. Hãy nhìn vẻ mặt mặt đoan trang và e lệ, hãy nhìn mái tóc hung mượt mà, hãy nhìn nước da trắng mịn như sứ và đôi bàn tay thanh tú đan vào nhau trong một tư thế thể hiện rất nhiều nữ tính. Da Vinci đã vẽ một phụ nữ, không nghi ngờ gì nữa. Trong bức tranh của Bassano, chúng ta thấy có một cái ly duy nhất đặt trên bàn. Rất có thể đó là chiếc Chén Thánh mà các sử liệu Thiên chúa giáo đề cập. Vậy hãy thử quan sát bức tranh của Da Vinci mà xem, ta sẽ thấy chẳng có cái ly nào cả. Ô hay, chẳng lẽ một hoạ sĩ nổi tiếng như ông lại có thể phạm một thiếu sót sơ đẳng như vậy (Da Vinci đã vẽ bức bích hoạ có kích thước 460×880 cm này trên tường phòng ăn của nhà tu kín Santa Maria delle Grazie tại Milan trong suốt 4 năm). Theo Dan Brown điều đó chỉ có thể phản ánh một điều là với Da Vinci, Chén Thánh không phải là một cái ly.

Những mật mã khác mà Da Vinci đã khéo léo cài vào bức tranh cho thấy Mary Magdalene và Chúa Jesus là một cặp, đúng hơn là một cặp vợ chồng. Vị trí ngồi của hai người nằm ở chính giữa bức tranh, và tư thế ngồi của họ đối xứng gương với nhau. Còn nữa, mầu sắc quần áo của Mary Magdalene và của Jesus là nghịch đảo của nhau. Jesus mặc áo trong màu đỏ và áo choàng ngoài mầu xanh da trời; Mary Magdalene thì mặc áo trong xanh da trời và áo choàng mầu đỏ. Rất phù hợp với sự hòa hợp âm dương.

Tư thế ngồi chạm hông vào nhau trong khi ngả người ra hai phía đối diện của Jesus và Mary Magdalene còn gợi lên hai hình ảnh nữa. Khoảng trống giữa hai người tạo thành một dấu hiệu hình chữ V nằm tại tiêu điểm của bức tranh. Đó là chính là biểu tượng cổ tượng trưng cho Chén Thánh và đồng thời cũng tượng trưng cho nữ giới (hình dáng tử cung của phụ nữ). Còn nếu xét cả khoảng trống hình chữ V và cơ thể hai người thì ta sẽ có một dấu hiệu hình chữ M. Rất có thể đó là chữ cái mở đầu của từ Matrimonio (hôn nhân) hay Mary Magdalene.

Tóm lại dường như thông điệp mà Da Vinci gửi gắm qua bức tranh của mình là theo ông Chén Thánh không phải là một đồ vật. Chén Thánh ám chỉ một người phụ nữ và người đó là Mary Magdalene.

Mary Magdalene

Trong kinh Tân ước, Mary Magdalene được nhắc tới 12 lần. Bà được Jesus xua đuổi tà ma ra khỏi cơ thể (Luke 8:2), có mặt tại nơi Chúa bị đóng đinh câu rút và sau đó lại xuất hiện tại cửa hang đá nơi cất giữ thi thể của Chúa vào thời điểm Chúa phục sinh. Chính bà là người đã được Chúa truyền mang tin lành về cho các thánh tông đồ.

Nhà thờ Cơ đốc giáo không có sự nhất quán trong cách nhận định về bà. Một mặt bà được phong nữ thánh, mặt khác giáo hoàng Gregory lại mô tả bà là một phụ nữ không đứng đắn, là gái điếm hoặc một phụ nữ phạm tội thông dâm, trước khi cải tà quy chính. Sự định danh này cho đến nay vẫn còn gây tranh cãi.

Theo Dan Brown, nhà thờ đã cố tình bôi nhọ hình ảnh của Mary Magdalene để hạ thấp vai trò của bà. Trên thực tế, Mary Magdalene là hậu duệ của hoàng tộc chi tộc Benjamin, một trong các chi tộc lớn của Israel. Bà là vợ của Chúa Jesus và là người lẽ ra đã trở thành người kế vị Chúa trong vai trò là người đứng đầu giáo phái do ông sáng lập. Chúa đã chọn bà, chứ không phải là thánh Peter, cho chức vị này.

Dan Brown củng cố lập luận của mình bằng các sách Phúc âm theo thuyết ngộ đạo (Gnostic Gospel) mà ông cho là những ghi chép sớm nhất về chúa Ki-tô, thậm chí sớm hơn cả Kinh Tân ước. Các sách phúc âm này dường như bị thất truyền cho đến khi nguyên bản của chúng được tìm thấy lại Nag Hammadi (Ai cập) vào năm 1945. Nội dung của chúng không tương đồng với các Phúc âm trong Kinh thánh. Hai Phúc âm mà ông trích dẫn là của Philip và của chính Mary Magdalene.

Phúc âm của Philip viết: “Và người đồng hành với Đấng Cứu thế là Mary Magdalene. Đức Ki-tô yêu bà nhiều hơn tất cả các tông đồ khác và người thường hôn lên môi bà. Những tông đồ còn lại cảm thấy khó chịu bởi điều đó và bày tỏ sự không chấp thuận. Họ nói với Chúa, ‘Tại sao Thầy  lại yêu nàng hơn tất thảy chúng con?’” Theo Brown, trong tiếng Ai-cập cổ (Coptic), từ người đồng hành được dùng với nghĩa là vị hôn thê. Còn Phúc âm của Mary Magdalene thì viết: “Và Peter nói, ‘Liệu Đấng Cứu thế có thực sự nói chuyện với một người đàn bà mà chúng ta không biết không? Liệu chúng ta có buộc phải lắng nghe người đó không? Liệu Chúa có coi người đó hơn chúng ta không?’. Và Levi trả lời: ‘Peter, sao anh lúc nào cũng tỏ ra nóng nảy. Giờ đây tôi thấy anh đang kình địch với người đàn bà này như thể là một đối thủ vậy. Nếu Đấng Cứu thế đề cao nàng, liệu rằng anh có thể chối bỏ nàng sao? Hẳn nhiên Đấng Cứu thế hiểu nàng rất rõ. Đó là nguyên nhân tại sao mà Người lại yêu nàng hơn yêu chúng ta.’”. Lý do khiến Peter ghen với Mary Magdalene như vậy, theo Brown, là vì Jesus đã dự định giao phó sứ mệnh điều hành giáo phái cho bà và đã có những chỉ dẫn riêng cho bà về chuyện đó mà Peter không nắm được.

Có vẻ như Da Vinci đã thể hiện sự tranh giành quyền lực ngấm ngầm của Peter với Mary Magdalene trong bức tranh “Bữa tối cuối cùng” khi mà nhân vật Peter vươn người về phía Mary và làm động tác “cắt cổ” bằng bàn tay của mình.

Tại thời điểm Jesus bị đóng đinh câu rút, Mary Magdalene đang mang trong mình đứa con của Jesus. Để đảm bảo an toàn cho đứa con chưa sinh ra của Chúa, bà buộc phải rời khỏi Đất Thánh. Bà đã bí mật du hành tới xứ Gaul (nay thuộc tỉnh Provence nước Pháp), ẩn mình trong một cộng đồng Do thái tại đó và sinh hạ một con gái đặt tên là Sarah. Hậu duệ của Chúa Ki-tô cứ thế âm thầm sinh sôi nảy nở cho tới thế kỷ thứ Năm, khi họ thông hôn với hoàng tộc Pháp và hình thành nên triều đại Merovingian, một vương triều nổi tiếng của nước Pháp cổ đại. Chính những thành viên của Merovingian đã tạo lập nên thành phố Paris. Giáo hội Vatican tìm cách trừ khử dòng tộc này và đã suýt thành công khi tiến hành ám sát vua Dagobert vào thế kỷ thứ VII. Thật may mắn là con trai của Dagobert, tên là Sigisbert, đã bí mật thoát được khỏi vụ tấn công và vì thế dòng họ vẫn duy trì được nòi giống. Trong số các hậu duệ về sau có vua Godefroi de Bouillon, người sáng lập ra hội kín Tu viện Sion. Theo Brown, dấu vết của dòng họ Merovingian còn lưu lại đến tận ngày nay tại Châu Âu dưới những cái tên khác như Saint Clair hay Plantard.

Hội kín Tu viện Sion

Tu viện Sion được Godefroi de Bouillon sáng lập năm 1099 tại Jerusalem, ngay sau khi thành phố này thất thủ trước đội quân của ông trong cuộc thập tự chinh. Vua Godefroi được coi là có nắm giữ một bí mật hết sức quan trọng lưu truyền trong gia đình ông kể từ lúc Chúa còn sinh thời. Sợ rằng bí mật này sẽ bị mất đi sau khi mình chết, vua Godefroi đã dùng hội kín Tu viện Sion như một tổ chức để bảo vệ và duy trì nó từ thế hệ này sang thế hệ khác. Trong những năm ở Jerusalem, Tu viện Sion đã phát hiện ra nơi cất giữ những văn bản được chôn dấu dưới đống đổ nát của đền thờ vua Herod, kiến trúc được xây dựng trên nền của đền thờ vua Solomon. Những văn bản này có thể chứng thực cho bí mật truyền khẩu của Godefroi, một bí mật có thể gây chấn động lớn đến mức Nhà thờ sẽ không từ bất cứ một thủ đoạn nào để đoạt được chúng.

Để có thể tìm lại được những văn bản này trong đống phế tích, Tu viện Sion đã thành lập một đội quân riêng của họ bao gồm các hiệp sĩ được mệnh danh là Những Hiệp sĩ Đền thánh (Knights Templar). Tuy không ai rõ đội quân này có tìm thấy đúng các văn bản nói trên hay không nhưng có một điều mà tất cả các học giả đều thống nhất với nhau là họ đã tìm thấy một cái gì đó đủ khiến cho họ trở nên giầu có và quyền lực hơn mọi sự tưởng tượng của bất cứ ai.

Không rõ do Những Hiệp sĩ Đền thánh đe doạ tống tiền Vatican, hay là do Nhà thờ cố gắng để mua lấy sự im lặng của họ, chỉ biết rằng giáo hoàng Innocent II lúc đó đã ngay lập tức công bố một sắc luật ban cho Những hiệp sĩ đền Thánh một quyền lực không hạn chế và tuyên bố “họ chính là luật pháp” với quân đội độc lập không bị bất cứ giáo phái hoặc vua chúa nào chi phối.

Cho tới đầu thế kỷ XIV, khi quyền lực của Những Hiệp sĩ Đền thánh đã trở nên quá lớn, giáo hoàng Clement V đã cùng với vua Pháp Philippe IV vạch ra một kế hoạch hành động chung để triệt hạ đội quân này, thu hồi các kho tàng của họ và bởi vậy có thể giành quyền kiểm soát các bí mật có liên quan đến Vatican. Clement V ra chỉ dụ phải bắt tất cả các Hiệp sĩ Đền thánh, tra tấn họ cho đến lúc họ phải xưng những tội mình đã phạm với Chúa. Mặc dù đã có một sự hiệp đồng vô cùng chính xác về mặt thời gian, mặc dù phần lớn các Hiệp sĩ Đền thánh đều bị bắt, bị tra tấn và sau đó bị thiêu sống nhưng các văn bản bí mật mà Vatican muốn chiếm đoạt lại lọt lưới. Tu viện Sion, tổ chức lãnh đạo đứng sau Những Hiệp sĩ Đền thánh đã mang được những văn bản này rời khỏi Paris lên một con tầu biển tại La Rochelle. Ngoài tổ chức này, không ai rõ chúng được chuyển đi cất giữ ở đâu. Nhiều người tin rằng vị trí cất dấu đã được dịch chuyển một số lần trong suốt 700 năm qua. Những phỏng đoán gần đây cho rằng hiện chúng đang nằm đâu đó tại nước Anh. Tên gọi chung của nhóm văn bản này chính là Sangraal (Chén Thánh).

Trong nội bộ tổ chức Tu viện Sion, bí mật về Chén Thánh được chia sẻ bởi một bộ tứ cao nhất (sénéchal) trong đó người đứng đầu được gọi là Đại Sư (grand master). Khi có một người trong bộ tứ chết, ba người còn lại sẽ lựa chọn trong số những hội viên cấp thấp hơn một người mới để trở thành sénéchal.

Sự tồn tại của hội kín Tu viện Sion được Brown đưa ra dựa vào một tài liệu viết trên giấy da tìm thấy trong kho lưu trữ của Thư viện Quốc gia Pháp tại Paris vào năm 1975 được biết đến dưới tên gọi Les Dossiers Secrets. Tài liệu này có liệt kê danh sách những Đại Sư của tổ chức kể từ năm 1188. Trong số họ có một vài cái tên rất nổi tiếng như Botticelli, Sir Isaac Newton, Victor Hugo và dĩ nhiên là Leonardo da Vinci. Nếu văn bản này là xác thực thì vị Đại Sư Da Vinci hẳn đã có phần bội tín vì đã vi phạm điều lệ của tổ chức Tu viện Sion khi gián tiếp tiết lộ bí mật về Chén Thánh qua bức tranh “Bữa tối cuối cùng” của mình.

Hoàng đế Constantine, Kinh tân ước và Chúa Jesus

Theo Dan Brown, từng có khoảng 80 sách Phúc âm khác nhau được cân nhắc cho Kinh Tân ước nhưng rút cuộc, chỉ có một vài trong số đó được thực sự đưa vào. Các Phúc âm của Matthew, Mark, Luke và John nằm trong số đó (Phúc âm là tường thuật về thân thế và cuộc đời hoạt động của Chúa Jesus trên trần thế).

Người đã tuyển chọn, chắp ghép tất cả các ghi chép lại với nhau để tạo thành bản Kinh thánh như chúng ta biết ngày nay là hoàng đế La Mã ngoại đạo Constantine Đại đế. Bản thân là một giáo trưởng của giáo phái tôn thờ thần mặt trời, Constantine chỉ thực sự chịu phép báp-têm để trở thành một tín đồ Công giáo trên chiếc giường chết của mình, khi ông đã quá yếu chẳng còn hơi sức đâu mà phản đối.

Động cơ cho việc “chuẩn hóa” Kinh thánh và tôn giáo của Constantine hoàn toàn mang tính chính trị. Vào thế kỷ thứ III sau Công nguyên, xung đột giữa những người Cơ đốc giáo và những người ngoại đạo đã lan rộng và có thể làm phân rã đế chế La Mã. Để giải quyết tình trạng này, vào năm 325, Constantine đã quyết định thống nhất La Mã dưới một tôn giáo duy nhất. Đó là Cơ đốc giáo. Là một chính trị gia khôn ngoan, Constantine đã đặt cược vào tôn giáo đang có xu hướng hưng thịnh tại thời điểm đó. Tuy nhiên vị hoàng đế này vẫn khéo léo chuyển đổi một phần của tín ngưỡng thờ mặt trời của mình vào Cơ đốc giáo. Bằng cách đưa những biểu tượng, ngày tháng và nghi lễ ngoại đạo vào Cơ đốc giáo truyền thống, Constantine đã tạo ra một tôn giáo lai ghép khả dĩ được cả hai phía chấp thuận.

Có thể kể một số ví dụ về sự hoà quyện giữa các tôn giáo như vầng hào quang trên đầu các vị thánh của Cơ đốc giáo xuất phát từ các đĩa mặt trời trong truyền thống Ai-cập. Các nghi thức Cơ đốc giáo như mũ tế của giám mục, bệ thờ, bài kinh ca ngợi Chúa hay lễ ban thánh thể đều có xuất xứ trực tiếp từ các tôn giáo khác trước đó. Ban đầu Cơ đốc giáo cũng coi trọng và tổ chức thánh lễ vào ngày Sabbath như người Do thái (tức là thứ Bảy) nhưng rồi Constantine đã dịch chuyển nó để trùng với ngày sùng kính mặt trời trong tín ngưỡng của ông. Đó là ngày Chủ nhật, ngày mặt trời (Sunday). Ngay cả ngày lễ Giáng sinh, 25/12, dường như cũng không liên quan đến ngày sinh thật của Jesus. Trước kỷ nguyên Ki-tô, Chúa Mithras của tín ngưỡng khác cũng sinh vào ngày 25/12, chết đi được quàn trong một hang đá và phục sinh sau đó ba ngày.

Một việc lớn khác mà Constantine thực hiện là việc tổ chức một đại hội Cơ đốc giáo toàn thể nổi tiếng được biết đến với cái tên Hội đồng Necaea. Trong lần hội họp này, người ta đã tranh luận và biểu quyết về rất nhiều khía cạnh khác nhau của Cơ đốc giáo, chẳng hạn như ngày Phục sinh, vai trò của các giám mục, cách thực thi lễ ban phước, và thậm chí cả tính thần thánh của Jesus.

Cho đến thời điểm đó, Jesus vẫn được các tín đồ xem như một đấng tiên tri không bất tử, có nghĩa là một con người. Hội đồng Necaea, dưới sự tác động vì các toan tính chính trị của Constantine, đã biểu quyết cho sự xác lập Jesus như là “Con của Chúa trời”. Họ thần thánh hóa Jesus với mục tiêu xác lập quyền lực cho giáo hội và đế chế La Mã.

Bởi vì Constantine nâng cấp trạng thái của Jesus tận gần 4 thế kỷ sau khi Jesus mất nên vào thời điểm đó đã tồn tại hàng ngàn văn bản ghi chép về cuộc đời Ông như là một con người. Để viết lại lịch sử, Constantine đã thực thi một hành động táo bạo, đó là đặt làm và tài trợ cho bản Kinh thánh mới, trong đó loại bỏ tất cả các bản Phúc âm nói về những đặc điểm con người của đấng Ki-tô và tô vẽ cho những bản Phúc âm coi Ông như Chúa. Các bản phúc âm trước đó bị cấm, thu lại để đốt đi.

Thật may cho các sử gia khi không phải tất cả các sách Phúc âm cổ đều đã bị Constantine tiêu huỷ hết. Cuộn giấy da tìm thấy ở Nag Hammadi (Ai cập) năm 1945 và Cuộn giấy da có tên Biển Chết tìm thấy trong một hang đá trong sa mạc Judaen (Israel) vào thập niên 50 của thế kỷ trước chính là các sách Phúc Âm viết về Chúa Jesus với những góc độ rất con người. Dan Brown cũng dùng các đoạn văn trong Phúc Âm Philip và Phúc Âm Mary Magdalene cho lập luận của mình như tôi đã trình bày trong mục “Mary Magdalene”.

Kết luận

Những nghi án của lịch sử nhiều không kể xiết và đa phần sẽ không bao giờ được làm sáng tỏ.  Sẽ chẳng có một lực lượng nào đứng ra xem xét để đưa ra phán quyết cuối cùng về tính đúng đắn của giả thuyết của Dan Brown. Chỉ với khoảng một giờ đồng hồ tìm kiếm trên Internet, tôi đã đọc được rất nhiều lập luận bác bỏ lại các thông điệp của “Mật mã Da Vinci”. Thú thật chúng cũng tạo nên cảm giác thuyết phục chẳng kém gì mấy so với lập luận của Dan Brown. Để kết luận, tôi chỉ có thể nói một câu đảm bảo đúng cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng. Đó là chỉ có Chúa mới biết chuyện gì đã thực sự xảy ra với Ngài.

Hà nội ngày 29/6/2005

Phạm Thúc Trương Lương