Hành Trình 1/4 thế kỷ

Tinh Vân Chí – Hồi thứ nhất

Đăng bởi: editor | 9/12/2019

Quan Đại Môn vị nghĩa bất vị tiền

Tam anh hùng kết nghĩa Thái Thịnh viên

Mùa xuân hoa cỏ tốt tươi, gió thơm hây hẩy. Vài đàn bướm đen vẫy cánh trên những miệng cống vỉa hè, xao lượn trong nắng sớm. Cảnh vật thật vô cùng ngoạn mục ngây ngất lòng người.

Khi đó ở E6 phố Thái Thịnh thuộc nội thành Hà Nội có Xuân Lan tửu quán vốn nổi tiếng về rượu ngon nhắm tốt, trong quán có một hán tử thân hình to béo, cao chừng mét tám nặng chín mươi cân. Hán tử ngồi độc ẩm, trên bàn thức ăn rất đạm, chỉ có đĩa hạt bí và vò rượu suông. Không phải vì hán tử ít tiền mà chẳng qua chàng không quen phung phí. Hán tử vừa uống rượu vừa nhằn hạt bí, chốc chốc lại thở dài não ruột.

Hán tử đó tên thật là Quan Đại Môn, vốn quê ở Nghệ An, dòng dõi trung lưu trí thức. Đúng hôm Đại Môn được mẹ sinh ra ở Bệnh viện C, có đám trẻ chăn bò đi qua cổng bệnh viện mà hát to lên rằng:

“Thỏ lặn thì ác phải tà

Niên nhị thập thất ắt là xuất Tinh”

Người nhà lấy làm lạ, đi hỏi thầy cúng. Thầy đến ngắm nghía Đại Môn rất lâu rồi phán rằng: “Câu hát của bọn trẻ hàm ngôn sâu sắc, ý tứ cao xa, nghĩ mãi chưa ra, có lẽ ngụ rằng bé sẽ lấy vợ ở tuổi 27. Còn xét về tướng mạo bé quả nhiên rất kỳ lạ, phía giữa hai chân có một hình số 1 nằm giữa hai số 0, là biểu trưng các giá trị đơn vị thông tin là bit, sau này bé ắt nổi danh về đường tin học”. Mọi người đều lấy làm mừng rỡ, mới đặt tên là Đại Môn, mong ước tương lai nhà cao cửa rộng sự nghiệp lẫy lừng.

Đại Môn lớn lên rất khôi ngô tuấn tú, da trắng như lông, má hồng như tuyết, mắt đen láy láy như nhặng bay dưới trăng, đặc biệt Môn vô cùng cơ trí, thông minh đĩnh ngộ. Năm 14 tuổi thi đỗ vào chuyên toán Chu Văn An, sau ít lâu không phải thi đại học mà được tuyển thẳng đi du học ở Nga-La-Tư, chuyên ngành vật lý lý thuyết. Thời gian du học Đại Môn có giao du với Mạc Hà là cao nhân thời đó về vi tính, được Mạc Hà chỉ điểm rất cặn kẽ, Môn đâm ra mê thích môn này. Sáng nào cũng chịu khó vào thư viện khoa tìm tòi khảo cứu, chiều lại lên phòng máy trường thực tập, ít lâu sau trình độ về tin học của Môn đã thăng tiến tột bậc, những bài toán phức tạp kiểu như giải phương trình bậc hai hay tìm định thức của ma trận 2×2 đều được Môn thực hiện trôi chảy trên máy.

Lần này Môn tốt nghiệp về hẳn, lấy Phan Thị vốn là bạn đồng học thuở chuyên toán làm vợ. Phan Thị là người có nhan sắc, tài năng so với Môn lại còn vượt trội mấy phần. Nàng khuyên Môn xin việc ở công ty nước ngoài hoặc vào biên chế Nhà nước là những nơi thu nhập ổn định, tương lai lâu dài, nhưng Môn vốn đã nuôi chí lớn nên một mực không chịu. Môn thấy nền công nghệ thông tin nước nhà còn kém quá, muốn ra tay góp sức mà chí đơn lực độc, không biết làm thế nào nên hôm ấy đành ra Xuân Lan tửu quán ngồi một mình uống rượu nghĩ kế. Đương khi Đại Môn thở dài ngao ngán, bống thấy một thanh niên mập lùn, mông rất to, mắt rất sáng, huyệt thái dương nổi gồ lên, hiển nhiên là một thân nội công phi phàm. Thanh niên đó đến đập mạnh tay vào góc bàn đối diện với chỗ Đại Môn ngồi, lập tức góc bàn bị phạt đi một mảnh nhẵn tựa cưa máy. Mọi người trong quán đều hoảng sợ đến tái mặt. Chỉ thấy thanh niên mặt hầm hầm quát lớn lên rằng: “Mẹ nó! ngu quá! ngu quá!”. Đại Môn lúc đầu cũng hơi hoảng, nghĩ không phải đầu cũng phải tai, sau nhìn kỹ khuôn mặt thanh niên cũng thấy đôi nét hiền từ nhân hậu, bèn liều mạng đáp mấy lời a-dua: “Mẹ nó, ngu thật! ngu thật!”. Thanh niên thấy có người hưởng ứng như hiểu rõ tâm ý của mình thì cả mừng, vòng quyền đáp lễ: “Thứ lỗi tại hạ không thấy Thái sơn”. Đại Môn cười nói: “Bất tất phải khách khí. Thói đời càng hiền càng ngu. Càng ngu càng hiền. Hiền tất ngu, ngu tất hiền. Trông nhân diện huynh đài hiền hậu thế kia, quả thật rất đáng trọng”. Nói đoạn vòng tay trả lễ, xin kê hai bàn làm một. Hai người nâng chén mấy bận, lát sau thấy ý hợp tâm đầu, cười nói bả lả.

Thanh niên mập vốn tên là Sơn Tiểu Dậu, quê ngoại Hà Tĩnh quê nội Nghệ An, cũng là dòng giống trung lương phúc hậu. Thuở nhỏ có biệt tài côn kiếm võ biền, chơi với chúng bạn thường lấy khoá Việt Tiệp ra doạ, ai trái ý là đập vào đầu, thành thử mọi người đều kính sợ. Dậu cũng là tay thông minh tột bực, học một biết mười, lại có khả năng tiên đoán tương lai, có những giấc mơ rất ứng nhiệm với những việc sẽ xảy ra. Tỷ như năm 15 tuổi Dậu nằm mơ thấy chuyện chăn gối, quả nhiên về sau khi lấy vợ chiêm nghiệm lại thấy rất đúng. Đại Môn và Tiểu Dậu chén chú chén anh một lúc, ngà ngà say, những chuyện bất mãn nói toạc ra hết, thấy nhãn quan thế sự hợp nhau vô cùng.

Đương khi hai người cao hứng bàn luận ầm ỹ bỗng nghe tiếng người quát rất lớn: “Phản tặc, giữa nơi đông người sao dám bàn chuyện bất lương, bỏ làm Nhà nước, ra chiến thương trường?”. Môn, Dậu hai người cả sợ, quay lại thì thấy một nam nhân hình dáng kỳ khôi, râu nhẵn ria dài, da trắng tóc đen, đùi to hơn cổ, cao chừng thước sáu nặng bẩy mươi cân. Dậu thấy địch nhân trông đường bệ như thế, biết không phải tay vừa định rút khoá nghênh chiến, bỗng thấy Đại Môn gạt tay mình ra đứng dậy hỏi: “Phải chăng túc hạ dòng họ Khánh Trung lừng lẫy xứ Hương Canh?”. Nam nhân thấy tung tích bại lộ,  lấy làm ngạc nhiên hỏi: “Ta tên là Đoàn họ Khánh Trung, tục gọi là thỉ, sao túc hạ lại biết đại danh bản mỗ?”. Môn  cười nói: “Cùng là người nhà cả. Thôi, xin đãi tân nhân một chén hoàng tửu”. Nói đoạn lại đích thân kéo ghế níu tay mời Đoàn vào nhập cuộc rượu. Nguyên Đại Môn thuở nhỏ đã từng sơ tán ở Hương Canh, biết tường tận mọi người trong nhà dòng họ Khánh Trung. Đoàn vào bàn ăn uống rất hào sảng, cười nói thân mật vui vẻ vô cùng. Đoàn lại là cháu họ chủ quán Xuân Lan, nên được chủ quán đãi cho cuộc nhậu một bầu rượu lạp không tính tiền.

Nguyên Đoàn quê ở Hà nam, gia phụ giữ một chức quan không nhỏ ở Bộ Giáo dục, đứng đầu Xây dựng đại học miếu. Tuy là nhà thế gia nhưng bản tính Đoàn rất bình dân chất phác, thường lấy tình người làm trọng. Nhiều người bảo Đoàn có căn Phật, làm việc gì cũng dễ thành công. Đoàn lại có biệt tài ngoáy mũi, chưởng pháp rất cao minh, ngoài ra công phu Nội trung tản khí dùng để chắn lối địch nhân hay giải tán đám đông cũng đã luyện được ở mức thượng thừa. Những công phu này của Đoàn về sau rất phát huy uy lực, sau này sẽ nói tới.

Chừng độ một giờ bốn khắc sau ba người đã cảm thấy rất thân thiết, tựa hồ như không thể thiếu nhau trong đời, tựa hồ như thiên duyên đã được sắp đặt không biết tự kiếp nào. Đại Môn bèn nói: “Hôm nay gặp các huynh đệ tại đây, thật là duyên trời định, nhân trời xuân ngày lành tháng tốt, ta hãy cùng nhau kết nghĩa kim lan, cùng mưu việc lớn, hai người thấy thế nào?”. Dậu, Đoàn đều vỗ tay khen phải. Bèn truyền tiểu nhị lập hương án ngoài vườn trong của Xuân Lan quán E6 Thái Thịnh. Đại Môn nhiều tuổi hơn cả làm đại ca, Tiểu Dậu làm nhị ca, Trung Đoàn làm tam ca. Ba người đồng quì xuống làm lễ bái trời đất, cùng nhau thề rằng: “Chúng tôi là Môn, Dậu, Đoàn nguyện kết làm huynh đệ, có nạn cùng hưởng, có bĩ cùng chia. Tuy không sinh cùng ngày cùng tháng cùng năm, nhưng nguyện cùng làm một nơi, cùng sống một thời, cùng chơi một chỗ, quyết chẳng sai lời”. Ba người thề xong thấy ngoài cửa huyên náo, chạy ra thấy dân chúng khắp nơi bàn chuyện Mỹ bỏ cấm vận, thảy đều cảm thấy là điềm lành.

Ngay buổi chiều hôm ấy Đoàn thuê lại Xuân Lán quán, cùng Môn, Dậu góp vốn mở “Computer Service” E6 Thái Thịnh chuyên về dịch vụ vi tính. Môn góp 3 lạng 2 đồng cân và chiếc máy vi tính 386SX/33 mang từ Nga-La-Tư về, Dậu góp 6 lạng 3 phân, Đoàn góp 2 lạng rưỡi. Người nào cũng vui vẻ phấn khích, hy vọng tràn trề, tương lai sáng lạn.

Hôm đó nhằm ngày 20 tháng 7 năm 1994, tức năm Giáp Tuất, niên hiệu Tinh Vân thứ nhất. Câu đồng dao của bọn trẻ chăn bò ngày xưa chính ứng nghiệm vào việc này.

Tags: